Cho tới tận năm 2015, ai mà đi ngang qua bùng binh chợ Bến Thành, tới đầu đường Trần Hưng Đạo đều thấy tòa nhà có chữ SINCO, ngày xưa còn có hình cái máy may lớn trên nóc tòa nhà. Đó chính là tòa nhà trụ sở của Hãng máy may Sinco nằm ở số 1 Trần Hưng Đạo, góc đường Calmette.
Đây là Hãng máy may Sinco – từng là nhà máy lắp ráp máy may lớn nhất cả nước.
Sinco có mặt chính thức ở Sài Gòn từ năm 1942, ban đầu là công ty nhập nguyên chiếc máy may từ Nhật, sau chuyển qua lắp ráp với linh kiện, phụ tùng nhập từ Nhật.
Nhà máy lắp ráp đặt ở số 1 Trần Hưng Đạo, nơi có tòa nhà quen thuộc với nhiều thế hệ người Sài Gòn suốt 50 năm.
Tòa nhà này đã có từ thời Pháp thuộc, sau đây là hình ảnh đầu thập niên 1950:
Năm 1975, nhà máy này bị quốc hữu hóa về tay nhà nước, lúc đó nhân sự còn lại là thợ lắp ráp khoảng 100 người. Xí nghiệp liên hợp SINCO được thành lập từ năm 1976, và cổ phần hóa năm 2000. Đến tháng 10 năm 2015, Công ty Cổ Phần Cơ Khí SINCO chuyển Trụ sở và Nhà xưởng về KCN Vĩnh Lộc 2, Huyện Bến Lức, Long An, không còn ở đường Trần Hưng Đạo nữa.
Có thể nói máy may hiệu Sinco gợi lại nhiều ký ức đối với những người Sài Gòn xưa, đặc biệt là phụ nữ, là công cụ đã giúp cho họ chăm sóc gia đình một cách chu đáo nhất. Đây là loại máy cơ bản ít chức năng nhưng hoạt động bền bỉ, có cấu tạo chỉ gồm thân máy, bàn máy và bàn đạp, rất dễ thao tác vì nó chỉ có một chức năng duy nhất.
Một số hình ảnh khác chụp vị trí đầu đại lộ Trần Hưng Đạo, có hình tòa nhà SINCO:
chuyenxua.net biên soạn
Vấn đề đốt vàng mã (giấy tiền vàng bạc âm phủ) hiện nay đang thu hút dư luận với 2 ý kiến trái chiều. Ít người biết rằng hàng trăm năm trước, trên báo chí quốc ngữ đã có nhiều bài viết, đa số là những phân tích khoa học để khuyên người dân bỏ tục lệ này. Đây là 1 trong những bài viết như vậy, đăng trên tạp chí Khoa Học tháng 9 năm 1933.
Ai đã quan sát về đồ mã, hẳn phải khen thầm rằng kỹ nghệ ấy ít lâu nay tiến bộ lắm. Mà tiến bộ thật: Ngày xưa thì các bác thợ hoa man mới đóng được những bánh xe gỗ, bây giờ họ đã chế ra được những chiếc ô tô rất hợp thời trang; họ còn làm được tê lê phôn, máy hát, đèn điện, cùng nhiều thứ khác.
Sở dĩ đồ mã được tinh xảo như thế là vì hai lẽ chính: một là đỗ mã dễ làm; hai là đồ mã tiêu thụ được nhiều.
Đồ mã dễ làm: Chẳng nói thì ai cũng biết cái ô tô, máy nói, máy hát, bóng đèn điện,… đều được làm bằng giấy với nứa, chẳng phải cần đến những khí cụ tinh xảo, đắt tiền và nhân công có chuyên môn như ô tô, máy nói, máy hát, đèn điện của người Âu Mỹ.
Đồ mã tiêu thụ nhiều: Ai thờ ông bà ông vải lại không dùng vàng mã. Dù giàu, dù nghèo, cũng phải sắm những đồ “vô dụng mà cần dùng” ấy. Vô dụng, vì là đồ giả; khi đốt rồi dù thực có giữ được nguyên hình ở dưới cửu tuyền chang nữa, nhưng cũng vẫn là giả kia mà. Cần dùng vì lòng tin, tin một cách mơ hồ, chẳng có gì làm căn cứ: tin rằng xe ô tô không máy đốt xuống Âm phủ sẽ hoa ra có động cơ, bóng đèn điện giấy đốt xuống đấy sẽ thành ra thật…. Nhưng đời này là đời khoa học, những chuyện tin nhảm ấy liệu có làm mê được những người học thức nữa không? Hẳn mọi người đã biết rằng xe ô tô chạy bằng máy, máy hoạt động nhờ dầu xăng, xy lanh, bít tông,… không thể nào tin được việc dùng ô tô giấy. Những người dùng đèn điện cũng vậy, đã biết rằng cái bóng đèn phải có sức điện thì mới sáng được, không thể tin chuyện anh thợ mã có tài gì mà làm cho giấy hóa pha lê.
Đã không tin mà bị cưỡng bách phải dùng, thiết tưởng thật có hại cho việc thờ cúng tổ tiên, là một việc ta chẳng muốn cho hạng thiếu niên lãnh đạm. Hại vì rằng họ đã biết đồ mã là đồ giả, dùng đồ mã là một việc tin nhảm; thờ cúng tổ tiên là ở lòng thành thực muốn ghi ơn người trước; nếu đem đồ giả dùng vào việc thực thì sao khỏi có hại.
Nay triều đình Huế đã cải đổi việc tế lễ: Nào là bỏ tam sinh, nào thôi vàng mã, tuy đó chưa phải là một việc cải đổi bắt buộc ai cũng phải tuân theo, nhưng cũng là một tấm gương sáng, ta há lại chẳng nên soi vào.
Người Tầu sinh ra đồ mã, nay đã bỏ rồi, ta bắt chước Tầu sao ta lại vẫn dùng. Chắc ta chưa tỉnh ngộ.
Ai là người biết xin thử nghĩ xem: Đồ mã, nên để hay nên bỏ?
Hữu Sào